Xung đột Jerusalem
[Chia sẻ] [PGS.TS Nguyễn Phương Mai]
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Phương Mai là giảng Viên môn Trung Đông học, ĐH Khoa học ứng dụng Amsterdam, Hà Lan và là tác giả cuốn “Con đường Hồi giáo” ghi lại chuyến đi dọc Trung Đông trong thời kỳ Mùa xuân Ả Rập. Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả.
Quyết định của Trump với Jerusalem có tạo xung đột
Việc ông Trump vừa ra tuyên bố công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel là một quyết định gây sốc, tranh cãi, và có tiềm năng tạo xung đột. Điều này xuất phát từ lịch sử phức tạp của miền đất này.
– Miền đất di cư
Khoảng hơn 3000 năm trước, vùng đất rộng lớn phía tây bán đảo Ả Rập là nơi sinh sống của rất nhiều bộ lạc khác nhau từ xa di cư đến. Hai trong số họ là tộc người Israel đến từ Ur (thuộc Iraq bây giờ) do họ tin rằng Thượng Đế đã hứa ban tặng cho những đứa con cưng của mình một miền đất mới trù phú, điều này được viết trong Kinh Cựu Ước của người Do Thái.
Tộc người thứ hai từ vùng đảo Crete (Hy Lạp bây giờ). Người từ đảo Crete mạnh mẽ, thiện chiến, trở thành kẻ thù của nhiều tộc người khác do chiếm được nhiều đất đai, thậm chí gây hấn cả với Pharaoh Ai Cập. Họ được người Israel gọi là Peleshet (tiếng Anh – Philistine), có nghĩa là những người di cư và chiếm đóng. Cái tên Palestine lần đầu tiên được nhắc đến bởi một nhà sử học Hy Lạp, ám chỉ vùng đất nơi những người của nhiều bộ tộc khác nhau cùng đến di cư và tranh chấp.
Hơn 1000 năm sau đó, khu vực này nằm dưới sự trị vị của đế chế La Mã rộng lớn. Tộc người Israel khi đó đã lớn mạnh và thành lập nhà nước vững vàng nhưng cũng không thoát khỏi ách đô hộ của La Mã. Họ liên tục nổi dậy. Hoàng đế La Mã sau khi đập tan một cuộc cách mạng của dân Do Thái Israel thì quyết định đổi tên quốc gia này thành Palestine, sát nhập vào với cả vùng đất rộng lớn của các tộc người Ả Rập quanh đó nhằm xóa bỏ triệt để dấu ấn của nhà nước Do Thái. Cái tên Palestine và người Palestine tiếp tục được Syria, đế chế Thổ Nhĩ Kỳ và đế chế Anh dùng để chỉ vùng thuộc địa bao la của mình. Vùng đất Palestine về bản chất là một vùng đất không có đường biên rõ ràng, chỉ có hàng trăm bộ lạc lớn nhỏ sống bên cạnh nhau: người Ả Rập, người Do Thái, người Thiên Chúa, người Hồi, người từ đủ các cành nhánh tôn giáo nhỏ hơn. Tất cả bọn họ đều tự nhận mình là người vùng Palestine. Đó không phải là một quốc gia độc lập mà đơn giản chỉ là một cái sân chim, nơi đất lành chim đậu.
– Chủ thuộc địa chia đất
Vùng Palestine luôn nằm dưới sự cai quản của một đế chế nào đó. La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman) coi Palestine là thuộc địa của mình nhưng giữ nguyên vùng đất này với cấu trúc thành phố tự trị và bộ lạc. Ottoman hùng mạnh chừng được 500 năm thì Anh và Pháp nổi lên. Để đánh sụp Ottoman, Anh Pháp đi đêm với tất cả các bộ lạc và sắc tộc ở Palestine và các vùng xung quanh, xúi giục họ nổi dậy chống lại kẻ đô hộ. Với sắc tộc nào Anh Pháp cũng hứa hẹn sẽ giúp họ chuyển đổi từ cơ chế bộ lạc và thành phố tự trị lên thành quốc gia, và cho họ quyền lập nhà nước tự chủ một khi đế chế Ottoman sụp đổ. Lưu ý khi đó “quốc gia” là một khái niệm và thể chế chính trị mới lạ, nhất là với các bộ lạc vùng Palestine.
Khi công việc đã xong xuôi, Anh Pháp chia nhau phần đất đai cai trị bằng cách kẻ vẽ các đường biên giới. Một vùng đất rộng lớn trở thành 5 quốc gia. Mỗi đường biên là một toan tính vô cùng cẩn trọng, vừa tạo sự cân bằng, vừa chia nhỏ để trị. Từ cơ thể Syria, Li Băng được Pháp xé ra hình thành một quốc gia mới với 5 tôn giáo khác nhau Thiên Chúa, Hồi giáo Sunni, Shia và Hồi giáo dòng Druze.
Kuwait được Anh đẻ non bằng cách vặt một mẩu từ Iraq nhằm mục đích chắn đường Iraq không cho ra biển (sau này cuộc chiến Iraq mang quân đánh Kuwait chính là để đòi lại đất ngày xưa). Đồn rằng, khi đang vẽ đường biên giới Jordan thì tự dưng ông Churchill hắt hơi một cái, thế là lãnh thổ của Jordan nguệch vào Saudi một phát. Churchill quẹt nước mũi, cúi xuống và tiếp tục đưa bút lượn trở lại vị trí cũ, thế cho nên đường ranh giới của Jordan trông mới kỳ lạ như vậy.
Cứ thế, các quốc gia mới của bán đảo Ả Rập được hình thành dưới quyền đô hộ của Anh và Pháp. Không có nước nào được độc lập trọn vẹn, thậm chí tộc người Kurd với dân số tới 40 triệu, dù được hứa sẽ cho lập nước nhưng cuối cùng bị phản bội trắng trợn khi vùng đất nơi họ sinh sống bị chia thành năm phần, nằm ngửa mặt dang chân dang tay thuộc về lãnh thổ của năm quốc gia khác nhau. Người Kurd cho đến bây giờ vẫn là dân tộc không quê hương lớn nhất và thảm thương nhất trong lịch sử hiện đại.
Quay trở lại thời điểm người Anh đi phân phát lời hứa. Không những hứa suông, họ còn hứa ba tầng chồng chéo lên nhau cho ba nhóm đồng minh khác nhau. Vùng Palestine rộng lớn được hứa khi Ottoman sụp đổ sẽ dành cho các bộ lạc Ả Rập để thành lập một hợp chủng quốc thống nhất. Rồi cũng chính miếng bánh đó lại được hứa cho gia tộc Hashimi danh giá từng thống trị vùng đất thánh Mecca của Hồi giáo. Cuối cùng, miếng mồi ngon béo được dùng để nhử một dân tộc đã hàng ngàn năm mất nước và tan tác khắp chân trời góc bể nhưng vẫn ngàn năm đau đáu nhìn về vùng đất tổ ở Palestine: người Do Thái.
– Miền đất hứa như trong truyền thuyết
Theo Kinh Cựu ước của người Do Thái, cách đây 3000 năm tại vùng Palestine, vua David lập nên Vương Quốc Israel nơi thành Jerusalem là trái tim của tôn giáo. Với dân tộc Do Thái, vùng đất này là những gì Thượng Đế đã hứa với tổ phụ của họ Abraham, như Kinh Cựu Ước đã ghi: “Ta ban cho con cháu của ngươi mảnh đất này, trải rộng từ sông Ai Cập đến sông Euphrates…”. Vì thế đây còn gọi là miền đất hứa (The Promised Land). Đổi lại, Abraham và các con cháu của ông phải thực hiện nghi lễ rạch bao quy đầu – một cuộc phẫu thuật nhỏ mở phần da ở đầu dương vật – để được công nhận là người thừa kế miền đất hứa. Việc tại sao Thượng Đế lại đòi hỏi một cái điều kiện có vẻ “trời ơi” như vậy thì còn nhiều tranh cãi. Nhưng đại đa số cho rằng rạch bao quy đầu sẽ vệ sinh hơn do cặn bã không còn nơi tích tụ, và nghi lễ này cũng mang tính tượng trưng cho việc mở trái tim mình để hoàn toàn cởi lòng không vẩn đục với Chúa (circumcision of the heart).
Tại Jerusalem, con trai của vua David là vua Solomon xây một Đền Thờ Thiêng hùng vĩ nơi cất giữ bản “10 điều răn của Thượng Đế” (The 10 commandments) nổi tiếng. Cũng ở vị trí Đền Thờ Thiêng này là Tảng Đá Nền (Foundation Stone) nơi Người bắt đầu công việc tạo dựng nên Trái Đất, nơi Người vun đất nặn nên Adam ông tổ của loài người, và cũng là nơi Người thử lòng sùng đạo của Abraham bằng cách yêu cầu ông hiến dâng mạng sống của chính con trai mình.
Người Do Thái dựng nước chưa được bao lâu thì liên tục bị xâm chiếm bởi hết đế quốc này đến đế quốc khác. Người dân bắt đầu cuộc lưu lạc kéo dài hàng nghìn năm. Đền Thờ Thiêng bị người Babylon tàn phá, xây dựng lại thì đến lượt đế chế La Mã đốt trụi. Tất cả những gì còn lại của chốn linh thiêng nhất trong tôn giáo Do Thái là một mẩu bé xíu của bức tường khổng lồ vốn chỉ xây bao quanh để bảo vệ cho Đền Thờ Thiêng và một phần của Tảng Đá Nền. Người Do Thái ở Jerusalem cứ mỗi chiều tối thứ bảy lại tập trung dưới chân bức tường vừa đọc kinh Cựu Ước, vừa dập đầu than khóc.
Cái cách than khóc khi cầu kinh của người Do Thái cũng rất đặc biệt, họ gập người, liên tục đổ gục đầu về phía trước như một kẻ lên đồng, trên tay cầm cuốn thánh kinh nhỏ xíu vừa khít trong lòng bàn tay. Phụ nữ thường trùm lên đầu một chiếc khăn, đàn ông đội một miếng vải tròn nhỏ thể hiện sự tôn kính. Khi họ bước đi, những chùm dây dài thò ra ngoài cuốn xoắn theo từng bước chân. Tất cả để nhắc nhở người Do Thái rằng trên đầu và xung quanh luôn có Thượng Đế ngóng nhìn, và mỗi lời ăn tiếng nói, mỗi hành động, mỗi lời thở than của họ đều có thể lay động tới Đấng Tối Cao.
Nếu đến Wailing Wall, bạn sẽ được chứng kiến tiếng khóc, tiếng cầu kinh, tiếng than thân thống thiết của người Do Thái bên những viên đá còn sót lại của quá khứ. Thật khó có thể tưởng tượng người Do Thái đã than khóc vật vã như thế này suốt hơn 2000 năm qua. Đó là một nỗi đau được truyền từ đời này sang đời khác, không có cơ hội hàn gắn, sẻ chia, và lãng quên. Có những thời kỳ người Do Thái thậm chí còn không được bén mảng đến gần Jerusalem nếu không muốn khép vào tội chết. Mỗi năm một lần, vài vị vua của đế chế cầm quyền La Mã hào phóng ban tặng cho họ một ngày được đặt chân vào thành Jerusalem, đến gần bức tường, và cũng chỉ đủ thời gian để mà than khóc cho một đất nước tan tác, một tôn giáo bị vùi dập, cho số phận chốn thiêng liêng nhất của linh hồn dân tộc đã bị đốt thành tro tàn chẳng còn mấy dấu vết.
– Trở về miền đất hứa
Tuy nhiên, lịch sử Do Thái như kể trên vẫn chỉ là từ cái nhìn của tôn giáo. Miền đất hứa sau bao thăng trầm của lịch sử, dân Do Thái chỉ còn chiếm có 3%, phần còn lại đa số là Hồi giáo Ả Rập. Năm 1897, một phóng viên Do Thái người Áo-Hung tên là Theodor Herzl dấy lên phong trào kêu gọi phục hưng nhà nước Do Thái tên là Zionism (bắt nguồn từ chữ Zion, chỉ Jerusalem).
Kể từ đó, Zionism khiến hàng ngàn người Do Thái quay trở về Palestine. Thượng Đế hứa cho họ miền đất này từ 3000 năm trước. Người Anh cũng đã lại chót hứa cho họ một quốc gia độc lập. Cộng thêm thảm họa diệt chủng Đức Quốc Xã giết 5 triệu rưỡi dân Do Thái sau năm 1945 khiến châu Âu cảm thấy cần có trách nhiệm nặng nề đền bù thiệt hại cho một dân tộc vừa bị tàn sát dã man.
Khi đó, làn sóng trở về lên đến đỉnh điểm, người Do Thái từ châu Âu ồ ạt tìm cách mua lại đất đai và bất động sản ở Palestine khiến người Ả Rập ở đây vô cùng tức giận. Liên Hợp Quốc (LHQ) bèn đề xuất việc chia vùng Palestine làm hai phần, một cho dân Do Thái Palestine lập nhà nước Israel, một cho dân Hồi giáo Palestine thành lập nhà nước Ả Rập thống nhất, riêng Jerusalem thì trở thành đặc khu quốc tế do LHQ kiểm soát.
Dân Do Thái Palestine đồng ý và lập tức thành lập nhà nước Israel. Tờ báo Palestine Post lập tức được đổi tên thành Jerusalem Post. Tuy nhiên, không giống như những đất nước được tạo nên bằng ngòi bút như Kuwait, Li Băng, Jordan… một trong hai quốc gia được Phương Tây vẽ ra lần này lại dành riêng cho một tôn giáo khác Hồi giáo và một sắc dân khác người Ả Rập. Dân Hồi ở Palestine kịch liệt phản đối. Họ cho rằng cả vùng Palestine phải được công nhận là một nhà nước độc lập duy nhất, và vì đa số dân chúng là người Hồi nên theo nhà nước mới thành lập phải là nhà nước Hồi giáo.
Chỉ một ngày sau khi nhà nước Israel non trẻ tuyên bố thành lập, liên minh 5 nước khổng lồ quanh đó gồm Ai Cập, Jordan, Syria, Iraq và Li Băng đồng loạt nổ súng tấn công với danh nghĩa đồng minh bảo vệ người Hồi Palestine thấp cổ bé họng. Đất đai giành giật, chiếm đi cướp lại xóa nhòa đường biên vốn do LHQ đề xuất. Israel mới đầu chỉ là tự vệ, sau càng chiến càng hăng, một mình đánh tan tác liên quân Hồi giáo. Năm 1967, trong một cuộc xung đột dài 6 ngày, quân Israel không những đánh bật Syria, Ai Cập và Jordan mà còn chiếm thêm vài khoảng lớn lãnh thổ của cả ba nước này, trên đà thắng thế chiếm luôn cả Jerusalem làm thủ đô, rồi kiểm soát cả một phần lớn vùng đất của người Hồi Palestine, đẩy hàng chục ngàn dân Hồi tị nạn không còn chỗ quay về, vì thế nên đây còn gọi là vùng bị chiếm đóng.
Liên quân Hồi giáo Ả Rập cay đắng đành chấp nhận thua cuộc, thậm chí phải xuống nước ký hòa ước với Israel để đổi lại các vùng đất bị mất. Cuộc chiến 6 ngày là một vết nhơ đầy nhục nhã trong thế giới Ả Rập, một vết thương không bao giờ lành, một mối thâm thù khiến người Hồi ở bất kỳ đâu cũng có thể xả thân xối máu để dành lại công bằng cho người Hồi Palestine. Đây cũng chính là lý do tại sao tổ chức (được coi là khủng bố) Hezbollah dòng Hồi Shia ở Li Băng được tung hô vì họ đã đẩy lùi quân Israel năm 2006, một phần rửa vết nhơ cho thế giới Hồi giáo.
– Palestine
Palestine vốn là tên của một vùng đất. Palestine chưa bao giờ là một quốc gia độc lập, và cho đến tận bây giờ vẫn không được công nhận là nhà nước độc lập. Việc từ chối lời đề nghị chia đất của LHQ và sau đó tấn công Israel bây giờ nhìn lại hẳn là một lỗi lầm chính trị phải trả giá quá đắt. Palestine giờ đã trở thành biểu tượng của mối hằn thù tôn giáo, là kho chất nổ tiềm năng, chỉ cần độc lập là lập tức sẽ bị các nước Ả Rập xung quanh biến thành một cái vòi rồng, cuốn lũ xả bão san phẳng Israel đến ngọn cỏ cuối cùng.
Nhiều người cho rằng các nước Ả Rập thực lòng không muốn Palestine được độc lập. Bởi một Palestine tan tác trong bàn tay của kẻ chiếm đóng cũng đồng thời là thứ vũ khí lợi hại để các nhà độc tài Hồi giáo lợi dụng nhằm triệt hạ Israel, khuấy động lòng người hướng đến một kẻ thù chung, và đương nhiên là quên đi những vấn đề nội bộ còn đáng xấu hổ hơn gấp nhiều lần. Như người ta lợi dụng một đứa bé tàn tật bị ngược đãi để điều khiển dư luận lòng người. Đứa bé ấy khỏe mạnh lên thì tất nhiên là không ai có lợi. Rốt cuộc, cũng là một cách chia để trị, nhưng lại lấy danh nghĩa là tình thương.
Về phần Israel, đây là một đất nước với sức sáng tạo kỳ diệu đã khiến sa mạc phải nở hoa, nhưng cũng là kẻ thù không đội trời chung với gần như toàn bộ Trung Đông. Đối với người Israle, đây là đất nơi tổ tông họ 3000 năm trước từng hưng danh lập quốc, nhưng Israel đã và sẽ mãi mãi là chiếc gai đâm vào mắt cộng đồng Hồi giáo Ả Rập ở Trung Đông, như một kẻ đã đi xa đến mấy ngàn năm rồi bỗng dưng quay lại ngang nhiên mua đất rồi chiếm đất của người Hồi.
– Jerusalem của Thiên Chúa Giáo
Sau khi Do Thái giáo ra đời được khoảng 1000 năm, Jerusalem lúc đó đang bị đô hộ bởi đế chế La Mã và người Do Thái bị phân biệt đối xử, rất nhiều người phải bỏ xứ mà đi. Vào một buổi sáng mùa xuân năm 30, một người Do Thái trẻ tuổi tên là Jesus (Giê-xu) tiến vào thành Jerusalem trên lưng một con lừa. Quần chúng tiếp đón ông nồng nhiệt. Vì Kinh Cựu Ước của người Do Thái nói rằng một messiah, người được chọn lựa, Đức Vua tương lai của Israel sẽ xuất hiện một cách khiêm nhường trên lưng lừa. Thế nên ai cũng hào hứng và hy vọng.
Mỗi ngày mới, hàng trăm người lại tụ hợp nghe Jesus nói chuyện, ngay chính tại Đền Thờ Thiêng Do Thái khi đó vẫn còn chưa bị chính quyền thống trị La Mã thiêu hủy. Nhưng vì những điều Jesus đề cập đến trực tiếp đối đầu với quyền lực của tầng lớp đô hộ, chỉ sau chừng một tuần trụ lại Jerusalem, Jesus bị chính quyền La Mã đóng đinh thập giá. Sau khi Jesus chết, đại bộ phận người Do Thái không còn tin ông là messiah nữa. Đơn giản bởi vì Jesus không hoàn thành sứ mạng của một messiah, tức là đưa toàn bộ dân Do Thái biệt xứ trở về Jerusalem, đánh đuổi chính quyền đô hộ La Mã, và đem đến hòa bình cho toàn nhân loại.
Suốt những thế kỷ thăng trầm sau đó, những người Do Thái tin vào Jesus, tin ông chính là con trai của Thượng Đế và sự bất diệt của Người dần dần tách ra khỏi tôn giáo gốc và hình thành Thiên Chúa Giáo, nối thêm kinh Tân Ước vào kinh Cựu Ước của người Do Thái. Suốt trong 2000 năm sau đó, Jerusalem trở thành điểm hành hương quan trọng nhất của các tín đồ Thiên Chúa.
– Jerusalem của Hồi Giáo
Do Thái giáo tồn tại được khoảng 1600 năm, Thiên Chúa giáo tồn tại được khoảng 600 năm, thì tôn giáo độc thần thứ ba ra đời từ trong lòng sa mạc sâu thẳm của bán đảo Ả Rập, cách Jerusalem khoảng 7 ngày đường bằng lạc đà. Chàng Muhammad trẻ trung nhận lời cầu hôn của một góa phụ giàu có hơn chàng đến 15 tuổi. Họ sống với nhau khoảng 20 năm hạnh phúc cho tới khi người vợ qua đời và Muhammad mới chỉ bắt đầu những bước đầu tiên truyền bá về một tôn giáo có tên là Người tuân lệnh (Islam).
Islam Hồi Giáo ghi nhận hầu như tất cả những nhân vật trong kinh Cựu Ước và Tân Ước, coi họ như những thiên sứ mà Thượng Đế tối cao đã gửi xuống mang thông điệp cho loài người. Jesus cũng được coi là một vị thiên sứ quan trọng, nhưng nhất định chỉ là thiên sứ người trần mắt thịt chứ không phải là con của Thượng Đế. Đối với họ, Jesus của Thiên Chúa giáo hay Moses của Do Thái giáo đều là những đấng tôn nghiêm, nhưng không phải là đấng để thờ phụng.
Khi Muhammad xuất hiện, ông tự xưng và được coi là thiên sứ cuối cùng của Thượng Đế, giới thiệu cho nhân loại Quran – cuốn kinh thánh bằng tiếng Ả Rập được ông nhấn mạnh là thông điệp gốc từ chính Thượng Đế, không hề bị thay đổi hay biến hóa trong quá trình được con người truyền bá như kinh Cựu Ước và Tân Ước.
Trong vòng hơn một năm đầu tiên của Hồi giáo, các tín đồ được Muhammad hướng dẫn quay về Jerusalem mỗi lần cầu nguyện. Nhiều học giả cho rằng Muhammad có thể muốn thúc đẩy quá trình cải đạo của cộng đồng Do Thái tại Mecca nên lấy Jerusalem – hướng cầu nguyện của người Do Thái luôn thể làm hướng cầu nguyện cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chỉ hơn một năm sau đó, Muhammad tuyên bố Thượng Đế gửi thông điệp cho tín đồ Hồi giáo chuyển hướng cầu nguyện sang Mecca, nơi Muhammad được giác ngộ.
Theo kinh Quran, một ngày kia, Muhammad được Thượng Đế đưa lên thăm thiên đàng. Chuyến bay từ Mecca lên chín tầng trời có điểm dừng tại một thánh đường ở “nơi xa nhất”, tiếng Ả Rập dịch là Al-Aqsa (Viễn Xứ). Chỉ có vậy, kinh Quran tuyệt nhiên không nói gì về tên của thành phố nơi thánh đường quan trọng này tọa lạc. Các học giả ngành thần học thường tranh luận khốc liệt để xem liệu Thánh Đường Viễn Xứ có phải là ở Jerusalem, và thành phố này có phải là nơi Muhammad dừng chân trong chuyến viếng thăm thiên đường ngắn ngủi? Tên thành phố Jerusalem thậm chí còn không được nhắc đến, dù chỉ một lần trong kinh Quran.
Tuy nhiên, sự thể được quyết định khi một cựu tín đồ Do Thái đã cải đạo sang thành người Hồi quả quyết rằng Muhammad đã cầu nguyện ở thánh đường Viễn Xứ và cất cánh lên thiên đàng từ chính Tảng Đá Nền ngay cạnh thánh đường Viễn Xứ trong khu Đền Thờ Thiêng của người Do Thái. Ngay lập tức, chính quyền Hồi giáo thống trị Jerusalem lúc bấy giờ lệnh cho một thánh đường lộng lẫy được xây vòng lấy Tảng Đá Nền, và được đặt tên là Dom of the Rock (Thánh Đường Đá).
Người Hồi giáo coi Thánh Đường Đá là một trong những chốn linh thiêng nhất của tôn giáo. Oái ăm thay, mảnh đất nơi Thánh Đường Đá được xây nên cũng là nơi Đền Thờ Thiêng từng đứng oai nghiêm, là nơi tột cùng linh thiêng của người Do Thái, là nơi người Thiên Chúa coi như chốn giao nhau giữa trời và đất, là nơi Thượng Đế vun đất nặn lên con người đầu tiên, là nơi cả tín đồ Do Thái lẫn Thiên Chúa tin rằng ông tổ của họ Abraham đã đặt con trai mình lên trên Tảng Đá Nền, và sẵn sàng cầm dao cắt cổ đứa con ruột thịt của mình, vì một khi Thượng Đế đã yêu cầu thì không cần phải biết lý do tại sao. Tảng Đá Nền vì thế có thể coi như một lò hạt nhân tôn giáo, nơi khí thiêng và tôn nghiêm không thể tích tụ đậm đặc hơn. Khách du lịch không thể bước chân vào Tảng Đá Nền, đơn giản vì bao trùm lên vị trí tột đỉnh linh thiêng của ba tôn giáo này giờ là Thánh Đường Đá của người Hồi và chỉ người Hồi mới có quyền bước chân vào.
– Jerusalem của đa tôn giáo
Nhưng không cần phải chạm tay vào Tảng Đá Nền thì Jerusalem cũng đã khiến nhiều người ngạt thở. Từ hầu như bất kỳ chiếc cửa sổ nào ở Jerusalem, phóng tầm mắt ra xa bạn có thể nhìn thấy những tháp chuông nhà thờ Thiên Chúa với hình thánh giá, xen lẫn những vòng cung hình trăng lưỡi liềm trên đỉnh tháp gọi cầu kinh của các thánh đường Hồi giáo, và dưới thấp một chút là lúp xúp các mái vòm hình trứng của thánh đường Do Thái giáo. Những ngày cuối tuần Jerusalem chìm vào ba nhịp đập khác nhau, thứ sáu là ngày lễ của người Hồi, thứ bảy là ngày lễ của người Do Thái và chủ nhật của người Thiên Chúa.
Chỉ trong vòng 0.9km vuông, Jerusalem nắm gọn trong tay những địa chỉ hành hương quan trọng bậc nhất của ba tôn giáo độc thần lớn nhất thế giới, ba anh em cùng cha mẹ và cũng là ba kẻ thù lớn nhất của nhau. Bản đồ Jerusalem chia gọn gàng thành 3 phần, phần của người Do Thái, phần của người Thiên Chúa và phần của người Hồi.
Cả thành phố như một phim trường thời Trung Cổ với những lễ nghi tôn giáo thấm đẫm vào từng hơi thở của mỗi người dân. Mỗi lối rẽ ngoặt trái hay ngoặt phải đều có thể làm bước chân một kẻ ngoại đạo run lên trong từng nhịp cầu kinh thống thiết. Mỗi người dân ở Jersalem là một di tích lịch sử sống động: những chàng trai Do Thái dòng cổ điển tóc tết hai bím dài hễ nhìn thấy phụ nữ là tránh hẳn sang đường bên kia, các ông già người Hồi chậm rãi bước đi tay lần tràng hạt miệng lẩm nhẩm cầu kinh, hay một thân hình bê bết máu của một kẻ đóng vai Chúa Jesus vai vác thánh giá chân đeo xích sắt bước từng bước khó nhọc trên Con Đường Sầu Thương. Họ như bước ra từ một bộ phim, ai cũng như một kẻ vội vã vâng mệnh Chúa Trời, ai cũng chỉ có một mối lo duy nhất rằng mình không phải là con chiên ngoan đạo, ai cũng có con mắt của một kẻ mộng du, bàng quang với tất cả cõi trần, vừa bước chân vội vã trên những con đường lát đá cổ kính, vừa hướng cả thể xác lẫn tâm linh về một cõi xa xăm, nơi ai cũng tin rằng tình yêu của mình với Đấng Tối Cao là tấm vé chắc chắn để có thể gõ cổng thiên đường.
Từ hàng bao thế kỷ nay, Jerusalem là trung tâm của thế giới, là điểm giao nhau của ba lục địa Á Âu Phi. Trong suốt 3000 năm lịch sử gần đây, Jerusalem đã bị thiêu trụi 2 lần, bao vây 23 lần, tấn công 52 lần và bị trao qua tay các chính quyền đô hộ khác nhau 44 lần. Từ sau cuộc chiến 6 ngày, Jerusalem trở thành một phần của Israel. Hình ảnh những người lính súng ống chằng chịt từ đầu đến chân khiến cuộc sống tín ngưỡng đã đậm đặc càng trở nên căng thẳng. Jerusalem như một cái chuồng sắt nơi chúa sơn lâm, vua sư tử và mãnh tướng rồng lửa bị buộc phải sống cùng nhau và chia chác khẩu phần ăn một cách hòa thuận.
Hầu như tất cả những câu chuyện tôn giáo nổi tiếng nhất đều diễn ra ở đây, trong cái khoảng chưa đầy một km vuông này. Đằng sau những đường phố lát đá lộng lẫy của thành Jerusalem là cuộc sống tín ngưỡng cực điểm, là sự căng thẳng đến tột cùng của xung khắc tôn giáo như một quả bóng đầy hơi có thể bục tung bất cứ lúc nào. Ở Jerusalem, mỗi hòn đá là một câu chuyện kinh thánh, mỗi người dân là một tín đồ sẵn lòng tử vì đạo, mỗi ngọn gió tràn qua cũng có mùi thánh thần, một lời nói bâng quơ cũng có thể trở thành điều tiên tri chờ ngày ứng nghiệm. Sự hội tụ đậm đặc của tôn giáo và ức chế xung đột khiến nơi đây nổi tiếng với hội chứng có tên là Jerusalem Syndrome: Người nào yếu bóng vía sống ở đây lâu sẽ có cảm giác mình bước ra từ …kinh thánh.
Jerusalem từ bao năm qua được mặc định sẽ là thủ đô của hai quốc gia: Israel với vùng Tây thành phố, và Palestine ở thì tương lai với phía Đông thành phố. Việc Trump tuyên bố Jerusalem là thủ đô của Israel mà không phân biệt Đông Tây, cộng thêm việc Saudi gần như ép Palestine chấp nhận một thị trấn nhỏ cách đó không xa làm thủ đô là một đòn giáng mạnh vào người Hồi. Hành động đó không khác gì sự bội ước, sự chèn ép của kẻ mạnh với đồng minh Saudi. Hơn thế nữa, nó cũng giống như việc một kẻ thứ ba – mang tiếng là người trung gian – nhưng lại đi đêm với bên A, và tuyên bố đất đai tổ tiên của bên B giờ là thủ phủ của bên A.
Nguời Hồi khắp nơi đang căm phẫn. Và nếu những giải pháp chi tiết hơn của ông Trump không có điều khoản nào đủ lớn để bù đắp, tiến trình hoà bình ở Trung Đông sẽ đi từ “bế tắc” đến “bùng nổ xung đột”.